SINH LÝ CHUYỂN DẠ
1. ĐẠI CƯƠNG
1.1. Một số định nghĩa
1.1.1. Chuyển dạ đẻ là một quá trình sinh lý làm cho thai và phần phụ của thai được đưa ra khỏi đường sinh dục của người mẹ.
Một cuộc chuyển dạ đẻ xảy ra từ đầu tuần lễ thứ 38 (259 ngày) đến cuối tuần lễ thứ 42 (293 ngày), trung bình là 40 tuần lễ (280 ngày) gọi là đẻ đủ tháng. Khi đó, thai nhi đã trưởng thành và có khả năng sống độc lập ngoài tử cung.
1.1.2. Đẻ non tháng là tình trạng gián đoạn thai nghén khi thai có thể sống được. Chuyển dạ đẻ non xảy ra khi tuổi thai từ 28 tuần lễ (196 ngày) đến 37 tuần lễ.
1.1.3. Đẻ già tháng là hiện tượng chuyển dạ đẻ xảy ra sau hai tuần lễ so với ngày dự kiến đẻ. Gọi là thai già tháng khi tuổi thai quá 42 tuần lễ (300 ngày).
1.1.4. Sảy thai là sự chấm dứt thai nghén trước khi thai có thể sống được. Thai nhi và rau thai bị tống ra khỏi buồng tử cung khi tuổi thai từ 6 tháng trở xuống.
Đẻ thường là cuộc chuyển dạ diễn ra bình thường theo sinh lý.
Đẻ khó là cuộc chuyển dạ đẻ mà các giai đoạn của cuộc đẻ, các thành phần tham gia vào cuộc đẻ (thai nhi, đặc biệt là các đường kính của đầu thai nhi, khung chậu và phần mềm của người mẹ, cơn co tử cung…) diễn ra không bình thường, cần sự can thiệp của người thầy thuốc.
1.2. Các giai đoạn của cuộc chuyển dạ đẻ
Người ta chia diễn biến của cuộc chuyển dạ đẻ ra làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn I hay giai đoạn xoá mở cổ tử cung được tính từ khi bắt đầu chuyển dạ đẻ đến khi cổ tử cung mở hết. Giai đoạn này được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn Ia và giai đoạn Ib. Giai đoạn này là giai đoạn kéo dài nhất của cuộc chuyển dạ.
- Giai đoạn II hay giai đoạn sổ thai. Giai đoạn này được tính từ khi cổ tử cung mở hết đến khi đẻ thai.
- Giai đoạn III hay giai đoạn sổ rau. Bắt đầu từ sau khi thai sổ hoàn toàn đến khi rau sổ ra ngoài.
1.3. Động lực của cuộc chuyển dạ đẻ
Cơn co tử cung là động lực của cuộc chuyển dạ đẻ. Nếu không có cơn co tử cung, thì cuộc đẻ không xảy ra. Rối loạn co bóp của tử cung có thể làm cho cuộc chuyển dạ bị kéo dài hoặc gây các tai biến cho người mẹ và cho thai nhi.
Cơn co tử cung làm thay đổi về phía người mẹ. Đó là hiện tượng xoá mở cổ tử cung, sự thành lập đoạn dưới tử cung và thay đổi ở đáy chậu trong thời kỳ sổ thai.
Đối với thai nhi, cơn co tử cung đẩy thai nhi từ trong buồng tử cung ra ngoài qua các giai đoạn lọt, xuống, quay và sổ.
Về phía phần phụ của thai, cơn co tử cung làm cho đầu ối được thành lập, rau thai và màng rau bong, xuống và sổ ra ngoài.
2. NGUYÊN NHÂN GÂY CHUYỂN DẠ ĐẺ
Cho đến ngày nay, cơ chế thật sự của sự phát sinh cuộc chuyển dạ đẻ còn chưa được rõ và đầy đủ. Tuy nhiên, có một số giả thuyết được đa số chấp nhận.
2.1. Prostaglandin
Các Prostaglandin là những chất có thể làm thay đổi hoạt tính co bóp của cơ tử cung. Sự sản xuất PGF2 và PGE2 tăng dần trong quá trình thai nghén và đạt tới giá trị cao trong nước ối, màng rụng và trong cơ tử cung vào lúc bắt đầu của cuộc chuyển dạ.
Người ta có thể gây chuyển dạ bằng cách tiêm Prostaglandin dù thai ở bất kỳ tuổi nào.
Sử dụng các thuốc đối kháng với Prostaglandin có thể làm ngừng cuộc chuyển dạ.
Các Prostaglandin tham gia làm chín mùi cổ tử cung do tác dụng lên chất Collagen của cổ tử cung.
2.2. Estrogen và progesteron
Trong quá trình thai nghén, các chất estrogen tăng lên nhiều làm tăng tính kích thích các sợi cơ trơn của tử cung và tốc độ lan truyền của hoạt động điện. Cơ tử cung trở nên nhạy cảm hơn với các tác nhân gây cơn co tử cung, đặc biệt là đối với oxytocin. Estrogen làm tăng sự phát triển của lớp cơ tử cung và làm thuận lợi cho việc tổng hợp các Prostaglandin.
Progesteron có tác dụng ức chế với co bóp của cơ tử cung. Nồng độ Progesteron giảm ở cuối thời kỳ thai nghén làm thay đổi tỷ lệ Estrogen/Progesteron là tác nhân gây chuyển dạ.
2.3. Vai trò của oxytocin
Người ta đã xác định được có sự tăng tiết oxytocin ở thuỳ sau tuyến yên của người mẹ trong chuyển dạ đẻ. Các đỉnh liên tiếp nhau của oxytocin có tần số tăng lên trong quá trình chuyển dạ đẻ và đạt mức tối đa khi rặn đẻ. Tuy vậy, oxytocin có lẽ không đóng một vai trò quan trọng để gây chuyển dạ đẻ mà chủ yếu là làm tăng nhanh quá trình chuyển dạ đang diễn ra.
2.4. Các yếu tố khác
- Sự căng giãn từ từ và quá mức của cơ tử cung và sự tăng đáp ứng với các kích thích sẽ phát sinh ra chuyển dạ đẻ. Trong lâm sàng, chúng ta thấy các trường hợp đa ối, đặc biệt là đa ối cấp, đa thai và phá thai to bằng phương pháp đặt túi nước là các thí dụ minh hoạ cho sự căng giãn cơ tử cung quá mức gây chuyển dạ đẻ.
- Yếu tố thai nhi: thai vô sọ hoặc thiểu năng tuyến thượng thận thì thai nghén thường bị kéo dài. Ngược lại, nếu có cường thượng thận thì sẽ đẻ non.
3. CƠN CO TỬ CUNG
Cơn co tử cung là động lực của cuộc chuyển dạ đẻ. Sự co bóp của cơ tử cung là sự trượt lên nhau của các sợi actin và myosin. Năng lượng cung cấp cho mối liên kết actin-myosin là sự thuỷ phân ATP.
3.1. Các phương pháp nghiên cứu cơn co tử cung
Có nhiều phương pháp đo áp lực của cơn co tử cung:
- Bằng tay: Đặt lòng bàn tay lên bụng sản phụ và theo dõi độ dài của mỗi cơn co tử cung, khoảng cách giữa hai cơn co. Phương pháp này không chính xác, phụ thuộc vào chủ quan của người đo và không đánh giá chính xác cường độ cơn co tử cung.
- Phương pháp ghi ngoài: Đặt một trống Marey ở đáy tử cung và đo áp lực của cơn co tử cung. Đơn vị tính bằng mmHg. Phương pháp này đo được tần số và độ dài các cơn co tử cung nhưng không đo được chính xác áp lực của cơ tử cung ở từng phần và áp lực trong buồng ối.
- Phương pháp ghi trong: Đặt một catheter mảnh và mềm vào buồng ối qua cổ tử cung hoặc qua thành bụng của người mẹ để đo áp lực trong buồng ối. Phương pháp đo này chính xác áp lực trong buồng ối, trương lực cơ bản của tử cung, tần số và cường độ cơn co tử cung. Nhược điểm của phương pháp này là không xác định được áp lực riêng từng phần của tử cung.
- Đặt các vi bóng (microballoons): Vào trong cơ tử cung ở các vị trí khác nhau của tử cung (sừng tử cung, đáy, thân, đoạn dưới tử cung…) qua thành bụng để ghi áp lực cơn co ở các vùng khác nhau của tử cung, điểm xuất phát của cơn co tử cung, thay đổi áp lực cơn co và sự lan truyền của cơn co tử cung.
3.2. Đặc điểm của cơn co tử cung
Áp lực cơn co tử cung được tính bằng milimét thủy ngân (mmHg) hoặc bằng kilo Pascal (1 mmHg = 0,133 kPa). Đơn vị Montevideo (UM) bằng tích của biên độ cơn co trung bình nhân với tần số cơn co (số cơn co trong 10 phút).
Trong 30 tuần đầu của thai nghén, tử cung hầu như không co bóp, hoạt động tử cung dưới 20 UM. Từ tuần thứ 30 đến tuần thứ 37, các cơn co tử cung có thể nhiều hơn, đạt tới 50 UM, không quá một cơn co trong một giờ.
Một hai tuần lễ trước khi chuyển dạ đẻ, tử cung có các cơn co nhẹ, nhanh hơn trước, với áp lực từ 3-15 mmHg, gọi là các cơn co Hicks. Đặc điểm của cơn co Hicks là không gây đau.
Trương lực cơ bản của cơ tử cung là trạng thái hơi co, bình thường ngoài các cơn co. Trung bình, áp lực này là 10 mmHg (dao động từ 5-15 mmHg).
Cường độ cơn co là số đo ở thời điểm áp lực tử cung cao nhất của mỗi cơn co.
Hiệu lực cơn co tử cung là hiệu số của cường độ cơn co tử cung trừ đi trương lực cơ bản. Hiệu lực cơn co giảm khi cường độ cơn co giảm hoặc trương lực cơ bản tăng.
Độ dài của cơn co được tính từ thời điểm tử cung bắt đầu co bóp đến khi hết cơn co. Đơn vị tính là giây.
Tần số cơn co tử cung tăng dần lên trong quá trình chuyển dạ. Khi mới chuyển dạ, khoảng 10-15 phút mới có một cơn co tử cung; sau đó, khoảng cách giữa các cơn co ngắn dần lại. Khi cổ tử cung mở hết, cứ 2 phút có một cơn co.
3.2.1. Các hình thái cơn co tử cung
Có 4 loại cơn co tử cung:
-
Loại I: Cơn co có dạng hình chuông, pha tăng áp lực tương xứng với pha giảm áp lực. Giữa các cơn co là thời gian nghỉ dài hoặc ngắn. Áp lực cơn co ở thời điểm này tương đương với trương lực cơ bản.
-
Loại II: Thường gặp. Cơn co loại này có đặc điểm là pha tăng áp lực ngắn còn pha giảm áp lực kéo dài, giống hình hyperbol. Cơn co kéo dài cho tới khi bắt đầu cơn co mới, không có giai đoạn nghỉ giữa hai cơn co tử cung. Trương lực cơ bản được tính ở thời điểm ngay trước khi bắt đầu cơn co tiếp theo.
-
Loại III: Cơn co này ngược lại với loại II, thường gặp ở giai đoạn mới chuyển dạ. Pha tăng áp lực kéo dài, lên từ từ và pha giảm áp lực ngắn và đột ngột.
-
Loại IV: Khá hiếm. Có biểu hiện sự thay đổi đều đặn của hai loại cơn co xen kẽ nhau, phân biệt bằng cường độ, độ dài và hình thái mỗi loại cơn co.
Trong chuyển dạ, thường gặp cơn co loại I hoặc loại II tăng dần lên về số lượng.
3.2.2. Đặc điểm của cơn co tử cung trong chuyển dạ đẻ
Trong chuyển dạ, cơn co tử cung có các tính chất đặc biệt:
-
Cơn co tử cung xuất hiện một cách tự nhiên, ngoài ý muốn của sản phụ. Điểm xuất phát của cơn co tử cung nằm ở một trong hai sừng của tử cung. Thông thường chỉ có một điểm xuất phát hoạt động và khống chế điểm kia. Tất cả các cơn co tử cung đều xuất phát từ một điểm. Điểm xuất phát cơn co tử cung ở người thường nằm ở sừng phải tử cung.
-
Cơn co tử cung có tính chu kỳ và đều đặn; sau một thời gian co bóp là một khoảng thời gian nghỉ rồi lại tiếp tục vào một chu kỳ co cơ khác. Cơn co tử cung nhanh dần lên; khoảng cách giữa hai cơn co khi mới chuyển dạ dài khoảng 15-20 phút, sau đó ngày càng ngắn lại. Cuối giai đoạn I, khoảng cách là 2-3 phút.
-
Cơn co tử cung dai dẳng; khi bắt đầu chuyển dạ chỉ dài từ 15 đến 20 giây, sau đó tăng lên tới 30-40 giây ở cuối giai đoạn xóa mở cổ tử cung. Cường độ cơn co tử cung cũng tăng dần lên. Áp lực cơn co khi mới bắt đầu chuyển dạ từ 30-35 mmHg (120 UM), tăng dần lên đến 50-55 mmHg ở giai đoạn cổ tử cung mở, và ở cuối giai đoạn I và trong giai đoạn sổ thai có thể lên tới 60-70 mmHg, tương đương với 250 UM.
-
Cơn co tử cung gây đau. Ngưỡng đau phụ thuộc vào từng sản phụ. Khi áp lực cơn co đạt tới 25-30 mmHg, sản phụ bắt đầu cảm thấy đau. Cơn đau xuất hiện sau cơn co tử cung và mất đi trước cơn co tử cung. Cơn co tử cung càng nhanh, càng mạnh và thời gian co bóp càng dài thì càng đau nhiều hơn. Khi có tình trạng lo lắng, sợ hãi, cảm giác đau sẽ tăng lên.
-
Cơn co tử cung có tính chất ba giảm: áp lực cơn co tử cung giảm dần từ trên xuống dưới. Áp lực cao nhất ở đáy tử cung rồi giảm dần xuống dưới, đến lỗ ngoài cổ tử cung thì áp lực bằng không. Thời gian co bóp của cơ tử cung cũng giảm dần từ trên xuống dưới; ở thân tử cung, co bóp dài hơn ở đoạn dưới, còn ở đoạn dưới tử cung thì thời gian co bóp dài hơn ở cổ tử cung.
-
Sự lan truyền cơn co tử cung cũng theo hướng từ trên xuống dưới. Cơn co xuất phát từ sừng bên phải lan ra đáy tử cung, rồi xuống đến thân tử cung, đoạn dưới và cổ tử cung. Tốc độ lan truyền cơn co là 1-2 cm/giây.
-
Số lượng cơn co tử cung trong một cuộc chuyển dạ đẻ thay đổi từ 70 đến 180, phụ thuộc vào số lần đẻ, độ dễ hay khó và chất lượng cơ tử cung.
3.3. Cơn co tử cung và cơn co thành bụng trong giai đoạn sổ thai
Trong giai đoạn hai của cuộc chuyển dạ đẻ, cơn co thành bụng phối hợp với cơn co tử cung để đẩy thai ra ngoài. Cơ hoành được đẩy xuống thấp trong ổ bụng, các cơ thành bụng co lại làm giảm thể tích ổ bụng. Khi thể tích ổ bụng bị giảm, áp lực của ổ bụng tăng lên, ép vào đáy tử cung, góp phần đẩy thai xuống.
Áp lực cơn co tử cung ở cuối giai đoạn hai đã tăng cao, cùng với cơn co thành bụng sẽ tạo thành áp lực trong buồng ối, tăng lên tới 120-150 mmHg. Như vậy, áp lực cơn co thành bụng rất cao, mà một nửa áp lực này do cơ hoành gây ra. Do vậy, việc hướng dẫn sản phụ biết cách rặn đẻ rất có giá trị.
4. THAY ĐỔI VỀ PHÍA ME, THAI NHI VA PHAN PHU CUA THAI DO TÁC DỤNG CỦA CƠN CO TỬ CUNG
4.1. Thay đổi về phía người mẹ
Có hai thay đổi quan trọng, đó là sự xoá mở cổ tử cung và thành lập đoạn dưới, thay đổi phần mềm ở đáy chậu trong giai đoạn sổ thai.
4.1.1. Sự xoá mở cổ tử cung và thành lập đoạn đưới
-
Xoá: khi chưa chuyển dạ cổ tử cung là một ống hình trụ, đầu trên là lỗ trong cổ tử cung, đầu dưới là lỗ ngoài cổ tử cung. Xoá là hiện tượng đường kính lỗ trong cổ tử cung rong dần ra trong khi lỗ ngoài chưa thay đổi: Như vậy cổ tử cung biến đổi từ hình trụ thành hình chóp cụt. Khi cổ tử cung xoá hết thì cổ tử cung cùng với đoạn dưới tử cung thành lập ống cổ-đoạn dưới.
Mở: là hiện tượng lỗ ngoài cổ tử cung giãn rộng ra. Khi cổ tử cung xoá hết, lỗ ngoài cổ tử cung mở 1 cm, đến khi mở hết là 10 cm. Khi đó tử cung thong thẳng với âm đạo và thành lập ống cổ – đoan – âm đạo.
Thời gian xoá mở cổ tử cung diễn ra không đều. Trong giai đoạn đầu (Ia) từ khi cổ tử cung xoá đến khi mở được 4 cm thời gian mất 8-10 giờ. Giai đoạn sau (Ib) thời gian mở cổ tử cung từ 4 cm đến mở hết mất 4-6 giờ, tốc độ trung bình mở 1 cm/giờ.
Sự xoá mở cổ tử cung nhanh hay chậm phụ thuộc vào các yếu tố:
-
Đầu ối đè vào cổ tử cung nhiều hay ít.
-
Tình trạng cổ tử cung: dầy cứng, sẹo xơ cũ…
-
Cơn co cổ tử cung có đồng bộ và đủ mạnh hay không.
Cơn co tử cung thực hiện được chức năng xoá mở cổ tử cung nhờ hai cơ chế: áp lực cơn co tử cung đè vào đoạn dưới làm giãn các sợi cơ vòng và sự co rút của các sợi cơ dọc làm co kéo đoạn dưới và cổ tử cung lên cao.
Thành lập đoạn dưới: đoạn dưới tử cung thành lập do eo tử cung giãn rộng, kéo dài và to ra. Bình thường eo tử cung chỉ cao 0,5-1 cm, khi đoạn dưới được thành lập hoàn toàn cao đến 10 cm. Trong cơn co, đoạn thân tử cung co bóp mạnh và rút lên trên, trong khi đó các dây chằng tròn và dây chằng tử cung cùng giữ tử cung xuống dưới, đoạn thân tử cung dồn lên và ngắn lại, đoạn dưới tử cung dài ra và cổ tử cung xoá mở thêm.
Giữa người con so và người con rạ có sự khác biệt nhau về hiện tượng xoá mở cổ tử cung. Ở người con so, cổ tử cung xoá hết rồi mới mở và đoạn dưới tử cung thành lập từ các tháng cuối của thai nghén. Còn ở người con rạ, cổ tử cung vừa xoá, vừa mở và đoạn dưới tử cung chỉ thành lập khi mới bắt đầu chuyển dạ. Thời gian mở cổ tử cung ở người con rạ nhanh hơn so với người con so, tốc độ mở tối đa tới 5-7 cm/h.
4.1.2. Thay đổi ở đáy chậu
Do áp lực của cơn co tử cung, ngôi thai xuống dần trong tiểu khung. Áp lực của ngôi thai đẩy dần mỏm xương cụt ra phía sau, đường kính mỏm cụt-hạ vệ thay đổi từ 9,5 cm thành 11 cm, bằng với đường kính mỏm cùng-hạ vệ. Sức cản của các cơ ở phía tầng sinh môn sau đẩy ngôi thai hướng ra phía trước.
Tầng sinh môn trước phồng to lên, vùng hậu môn-âm hộ dài ra, giãn mà có thể lên tới 12-15 cm (bình thường 3-4 cm). Do tác dụng của cơn co tử cung và cơn co thành bụng, tầng sinh môn sau bị ngôi thai đè vào giãn dài ra, lỗ hậu môn mở rộng, xoá hết các nếp nhăn. Âm môn mở rộng, thay đổi hướng dần nằm ngang. Sự tiến triển của ngôi thai thường gây són đái và nếu trực tràng còn phân thì phân sẽ thoát ra ngoài hậu môn khi ngôi thai xuống thấp trong tiểu khung.
4.2. Thay đổi về phía thai
Thai nhi là phần chuyển động trong cuộc chuyển dạ đẻ. Áp lực của cơn co tử cung đẩy thai nhi từ trong buồng tử cung ra ngoài theo cơ chế đẻ.
Thời gian xoá mở cổ tử cung diễn ra không đều. Trong giai đoạn đầu (Ia) từ khi cổ tử cung xoá đến khi mở được 4 cm thời gian mất 8-10 giờ. Giai đoạn sau (Ib) thời gian mở cổ tử cung từ 4 cm đến mở hết mất 4-6 giờ, tốc độ trung bình mở 1 cm/giờ.
Sự xoá mở cổ tử cung nhanh hay chậm phụ thuộc vào các yếu tố:
-
Đầu ối đè vào cổ tử cung nhiều hay ít.
-
Tình trạng cổ tử cung: dầy cứng, sẹo xơ cũ…
-
Cơn co cổ tử cung có đồng bộ và đủ mạnh hay không.
Cơn co tử cung thực hiện được chức năng xoá mở cổ tử cung nhờ hai cơ chế: áp lực cơn co tử cung đè vào đoạn dưới làm giãn các sợi cơ vòng và sự co rút của các sợi cơ dọc làm co kéo đoạn dưới và cổ tử cung lên cao.
Khi đoạn dưới được thành lập, ngôi thai cũng từ từ tụt dần xuống áp sát vào đoạn dưới làm cho ngôi thai sát với cổ tử cung, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở cổ tử cung.
Hiện tượng chồng xương sọ. Trong quá trình chuyển dạ đẻ, thai nhi có một số hiện tượng uốn khuôn.
-
Hộp sọ của thai nhi giảm bớt kích thước bằng cách các xương chồng lên nhau. Hai xương đỉnh chồng lên nhau, xương chẩm và xương trán chui xuống dưới xương đỉnh. Hai xương trán cũng có thể chồng lên nhau.
-
Thành lập bướu thanh huyết. Đó là hiện tượng phù thấm thanh huyết dưới da, đôi khi rất to. Vị trí bướu thanh huyết thường nằm ở phần ngôi thai thấp nhất, giữa lỗ mở của cổ tử cung. Bướu thanh huyết chỉ xuất hiện sau khi vỡ ối. Mỗi một ngôi thai thường có vị trí riêng của bướu thanh huyết.
4.3. Thay đổi ở phần phụ của thai
4.3.1. Thành lập đầu ối: Cơn co tử cung làm cho màng rau (trung sản mạc và nội sản mạc) ở cực dưới của trứng bong ra, nước ối dồn xuống tạo thành túi ối hay đầu ối.
4.3.1.1. Các loại đầu ối: Có 3 loại đầu ối.
-
Ối dét: Lớp nước ối phân cách giữa màng ối và ngôi thai rất mỏng. Màng ối hầu như sát vào ngôi thai. Tiên lượng tốt do có sự bình chỉnh của ngôi thai tốt.
-
Ối phồng: Lớp nước ối giữa màng ối và ngôi thai dày. Thường gặp trong các trường hợp ngôi thai bình chỉnh không tốt, có khe hở giữa đoạn dưới tử cung và ngôi thai. Do đó, trong cơn co tử cung, nước ối từ phía trên dồn xuống phía cực dưới làm cho màng ối căng phồng lên.
-
Ối hình quả lê: Đầu ối dày trong âm đạo mặc dù cổ tử cung mở còn nhỏ, do màng ối mất khả năng chun giãn. Thường gặp trong thai chết lưu.
4.3.1.2. Tác dụng của đầu ối:
- Giúp cho cổ tử cung xoá và mở trong chuyển dạ đẻ do đầu ối ép vào cổ tử cung.
- Bảo vệ thai nhi với các sang chấn bên ngoài.
- Khi ối vỡ trên 6 giờ có nguy cơ nhiễm khuẩn ngược dòng từ âm đạo vào buồng ối.
4.3.1.3. Các hình thái ối vỡ:
- Vỡ ối đúng lúc là vỡ ối khi cổ tử cung mở hết.
- Vỡ ối sớm là vỡ ối xảy ra khi đã có chuyển dạ nhưng cổ tử cung chưa mở hết.
- Vỡ ối non là vỡ ối xảy ra khi chưa có chuyển dạ.
4.3.2. Rau bong và số rau: Sau khi sổ thai, cơn co tử cung tiếp tục xuất hiện sau một giai đoạn nghỉ ngơi sinh lý làm cho rau thai và màng rau bong ra, xuống dần trong đường sinh dục người mẹ và sổ ra ngoài. Tử cung co chặt lại tạo thành khối an toàn gây tắc mạch sinh lý để cầm máu sau khi rau sổ.
5. CÁC THAY ĐỔI KHÁC
5.1. Về phía người mẹ
5.1.1. Thay đổi về hô hấp: Sự tăng thông khí trong các cơn co tử cung có thể gây nên tình trạng kiềm hô hấp. Trong khi sổ thai, các cơn ra đẻ làm tăng PCO2, và tình trạng tăng hô hấp sẽ làm tăng thêm vào tình trạng toan chuyển hóa.
5.1.2. Thay đổi về huyết động: Tư thế sản phụ nằm ngửa, tử cung thường lệch sang phải nên tĩnh mạch chủ bụng bị chèn ép làm giảm tuần hoàn rau thai dẫn đến suy thai. Cho sản phụ nằm nghiêng trái sẽ loại bỏ được tác dụng xấu này.
Các cơn co tử cung mạnh hoặc gắng sức rặn đẻ sẽ chèn ép động mạch chủ bụng dẫn tới giảm lưu lượng tuần hoàn rau thai và gây suy thai.
Giảm huyết áp động mạch do giãn mạch hoặc do liệt mạch vì gây tê quanh tủy sống cũng có thể dẫn đến suy thai.
Mẹ bị chảy máu nhiều trong chuyển dạ làm giảm khối lượng tuần hoàn và kèm theo tình trạng co mạch cũng gây ra suy thai nặng.
CÁC CHUYÊN MỤC KHÁC
Viêm phổi là gì và làm thế nào để ngăn ngừa nó?
Viêm phổi là một bệnh nhiễm trùng đường hô hấp dưới, gây viêm ở phổi và có thể gây nguy hiểm nếu không được điều [...]
Tiểu đường tuýp 2 là gì và làm thế nào để quản lý nó hiệu quả?
Tiểu đường tuýp 2 là tình trạng cơ thể không thể sử dụng hiệu quả insulin, gây ra sự tăng đột ngột của đường trong [...]
Làm thế nào để nhận biết và điều trị bệnh tăng huyết áp?
Tăng huyết áp (huyết áp cao) là một tình trạng phổ biến nhưng thường không có triệu chứng rõ ràng, có thể dẫn đến các [...]
Bệnh viêm khớp dạng thấp là gì và làm thế nào để quản lý triệu chứng?
Bệnh viêm khớp dạng thấp (RA) là một bệnh tự miễn dịch, dẫn đến viêm mãn tính ở các khớp. Đau, sưng và cứng khớp, [...]
Triệu chứng của bệnh hen suyễn là gì và làm thế nào để kiểm soát bệnh?
Bệnh Hen suyễn là một bệnh lý mãn tính ảnh hưởng đến đường hô hấp, gây ra khó thở và các triệu chứng khác.
Cách nào để phát hiện sớm bệnh ung thư?
Phát hiện sớm bệnh ung thư có thể giúp tăng cơ hội điều trị hiệu quả và sống sót, cần Các xét nghiệm định kỳ [...]
Hội chứng ruột kích thích (IBS) là gì và làm thế nào để quản lý nó?
Hội chứng ruột kích thích (IBS) là một rối loạn tiêu hóa mãn tính, ảnh hưởng đến chức năng ruột mà không có tổn thương [...]
Làm thế nào để xử lý khi bị ngộ độc thực phẩm?
Ngộ độc thực phẩm là tình trạng xảy ra khi tiêu thụ thực phẩm bị nhiễm khuẩn, virus hoặc hóa chất độc hại.
Có cần tiêm phòng cúm hàng năm không?
Tiêm phòng cúm hàng năm là một trong những biện pháp phòng ngừa hiệu quả nhất để bảo vệ sức khỏe.
Triệu chứng của bệnh trào ngược dạ dày thực quản là gì?
Bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD) là tình trạng acid dạ dày trào ngược lên thực quản, gây ra nhiều triệu chứng khó [...]
Làm thế nào để phòng ngừa bệnh tim mạch?
Bệnh tim mạch có thể được phòng ngừa thông qua các biện pháp sau: Chế độ ăn uống lành mạnh, Tập thể dục thường xuyên
Bệnh tiểu đường là gì và có những loại nào?
Bệnh tiểu đường (Đái tháo đường) là một bệnh lý chuyển hóa mạn tính, đặc trưng bởi mức đường huyết cao. Bệnh xảy ra khi [...]
Nhiễm Độc Thai Nghén
Các triệu chứng này thường giảm hoặc biến mất sau khi sinh và được gọi là tình trạng nhiễm độc do thai nghén
Thai chết lưu trong tử cung
Trong nhiều trường hợp, nguyên nhân gây ra tình trạng này khó xác định. Thai chết lưu gây ra hai nguy cơ lớn cho người [...]
Vỡ Tử Cung
Vỡ tử cung là một tai biến sản khoa, rất nguy hiểm cho thai và cho mẹ, nếu không phát hiện và xử trí kịp [...]
SUY THAI CẤP TÍNH TRONG CHUYỂN DẠ
Suy thai cấp tính là một tình trạng đe dọa sinh mạng thai, sức khỏe thai và tương lai phát triển tinh thần, vận động [...]